...

Ngày 4: nghe uy linh những đoàn quân

Buổi chiều hôm trước, lúc vừa đến tượng đài chiến thắng Khe Sanh, chúng tôi gặp một anh xe ôm, anh này cao lớn và đẹp trai, anh có dáng dấp, giọng nói và cách giao tiếp rặt kiểu đặc trưng của một đại ca giang hồ vùng viễn biên. Khi biết chúng tôi từ SG ra, anh bảo rằng mình đã từng sống ở SG 5 năm, thất bại nên giờ về đây chạy xe ôm. Tôi hỏi anh làm chi ở SG? Anh trả lời chẳng biết đùa hay thật: ăn cướp. Khi biết chúng tôi sẽ vào đường HCM Tây, anh xua tay, đi Quảng Bình thì xuống Cam Lộ mà đi, ai lại đi đường này. Tôi hỏi lý do thì anh bảo đường này nguy hiểm lắm, núi cao vực sâu, sương mù cả ngày, không đi được đâu, đừng đi.

Buổi sáng trước khi lên trả phòng để đi ăn sáng, anh chủ khách sạn hỏi chúng tôi định đi đâu, nghe xong anh vẫn lặp lại câu nói của vị khách giang hồ ở ngã ba, ôi, xuống Cam Lộ mà đi, đừng đi đường đó, đường đó rừng thiêng nước độc, chỉ có núi cao mây phủ, không có ai qua lại đâu, đừng đi.




Buổi sáng ở Khe Sanh mù sương trắng, sương đặc đến nỗi chúng tôi hầu như chỉ nhìn được vài mét. Trong sương, cả thị trấn vẫn còn ngái ngủ dù đã hơn 7h sáng, đường phố vắng lặng chỉ có bóng những người dân tộc đi bán hàng ở chợ sớm lầm lũi trở về. Chúng tôi chọn một chỗ gần khách sạn để ăn sáng vì sương đặc quá, không thể đi xa được. 

Ăn xong, café sáng xong thì trời hửng được chúng chút xíu, chúng tôi hớn hở đổ đầy bình xăng, bắt tay nhau lần cuối trước khi rẽ vào ngã ba đi đường HCM nhánh tây, bất chấp sương mù, bất chấp những cảnh báo nguy hiểm, tôi bảo hai bạn đồng hành rằng chúng ta đã đem một bó hương to từ SG và đi 1,300km đến đây không phải để rẽ lối khác, phía trong kia mới là nơi bao người lính Trường Sơn đã ngã xuống, nếu ta không vào thì chẳng mấy người vào thắp hương cho họ. Phía trong kia mới là nơi thử thách thực sự.


Trời chỉ hửng một ít ở Khe sanh, vừa thoát khỏi thị trấn là chúng tôi chìm trong làn sương mù đặc quánh, đến nỗi hầu như xe chỉ chạy ở tốc độ của một người đi bộ. Với đà này thì có lẽ cả ngày chúng tôi cũng không đi hết được cung đường 220km này. 

Lọ mọ mãi chúng tôi cũng đến được di tích sân bay Tà Cơn. Sân bay Tà Cơn xưa là một cứ điểm, một chiến trường ác liệt, đối với Khe Sanh nó cũng như sân bay Mường Thanh của Điện Biên năm xưa, giờ cả khu di tích một điểm thăm quan vắng lặng, trông như đã bị bỏ hoang, phòng trưng bày đóng cửa im ỉm, những chiếc máy bay và các công sự nằm im lìm trong sương trắng. 






Trong lúc đi vào đường băng, tôi nói rằng các anh các chú không giúp thì sương trắng thế này chắc phải quay lại đường Đông, vài giây sau cậu em đi cùng đã chỉ tay về hướng các công sự cuối đường băng, anh ơi nhìn kìa, sương đang tan. Quả nhiên, như một phép màu, màn sương trắng mờ đục như một tấm vải trùm được ai đó kéo lên, khung cảnh sáng tỏ trở lại.




Chúng tôi đi loanh quanh, thăm thú, chụp ảnh trong sân bay, ngắm nghía tấm bia ghi công sờn cũ một lúc rồi ra thắp hương, nơi bàn thờ lạnh lẽo ngập trong nước mưa, hai cái lọ hoa mẻ miệng, ngã chỏng chơ. Bạn Thắp trong lúc đặt bó hương xuống để đỡ lọ hoa thì chạm vào một cái lá, kiểu lá cây nha đam, làm ngón tay bạn ấy thủng một lỗ nhỏ, rất buốt và máu chảy rất nhiều. Để an ủi bạn Thắm, tôi nói rằng các anh, các chú nằm đây thấy cô gái đẹp nên trêu đó mà, có gì đâu.







Ra khỏi sân bay Tà Cơn, thật diệu kỳ, trời hửng sáng. Chúng tôi đi qua nhiều bản làng của người dân tộc, qua Hướng Phùng còn có hẳn một cái chợ nhỏ, cũng khá sầm uất. Chúng tôi hí hửng, vậy là những người ngoài Khe Sanh chỉ dọa bọn miền nam, đường tuy nhỏ và chỉ có bê tông 1 làn xe ở giữa, hai bên đắp đất phủ đá dăm, vừa đủ cho 2 chiếc xe tránh nhau nếu đi thật chậm, nhưng không đến nỗi hoang vắng như tôi tưởng.





Cho đến tận chân đèo Sa Mù, chúng tôi vẫn còn thấy văn minh, nhưng khi bắt đầu lên đèo Sa Mù, chúng tôi chỉ còn gặp một chiếc xe máy của người kinh (vì có chở theo ống thuốc lào), còn lại từ đó thi thoảng lắm chúng tôi mới gặp một người dân tộc, ngoại trừ bộ đội và kiểm lâm. 

Đèo Sa Mù thật đẹp, đường nhỏ quanh co uốn lượn trên đỉnh núi, nhìn xuống những thung lũng xanh bạt ngàn, trời trong xanh và nắng tỏa lấp lánh, sương trắng bị xua tan chỉ còn vài vệt nhỏ, quanh quất những sườn núi. Chúng tôi thoải mái dừng xe, chụp ảnh, hút thuốc… mà không gặp một chiếc xe nào nữa.











Qua khỏi đèo Sa Mù, thực chất nói là qua đèo nhưng từ đó hầu như chúng tôi chỉ đi trên loanh quanh núi, đường xuyên rừng nguyên sinh đẹp lộng lẫy, không có tầm nhìn tốt như ở Sa Mù nhưng đường trong rừng có rất nhiều suối, phải nói là rất nhiều những con suối và thác đổ bên cạnh đường, tha hồ dừng chụp ảnh phơi sáng, vốc làn nước mát lạnh từ núi rừng Trường Sơn phả lên mặt, cảm giác thật sảng khoái. 

Ở một con thác lớn, chúng tôi gặp lại đôi bạn trẻ cao nghều đi moto người Tây Ban Nha, chúng tôi trò chuyện về con đường một lúc rồi đi tiếp, nhưng chiếc xe của cô gái có gì đó không ổn, nó có vẻ trục trặc, nhưng cô gái có vẻ chưa cần giúp nên chúng tôi tiếp tục đi. Lúc này hầu như cả núi rừng Trường Sơn chìm trong sương mù, trắng xóa, con đường trơn ướt và cheo leo một bên bên vách núi, một bên là biển mây trắng chập chùng.





Chúng tôi đến ngã ba Dân Chủ, nơi trên một góc cao có dựng một tấm bia đá tưởng nhớ sự hy sinh của những thanh niên xung phong, những người năm xưa từng “sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm” đã nằm lại xuống, nhà bia do ban liên lạc cựu TNXP Thanh Hóa dựng vì riêng Thanh Hóa có 76 TNXP đã hy sinh ở đây. Nhà bia mới làm, rất đẹp, có mấy vòng hoa còn mới nhưng tịnh không bóng người, được rào bằng những cây gỗ lớn xung quanh. Chúng tôi leo qua hàng rào để vào thắp hương, cầu mong cho các anh chị TNXP an nghỉ, báo với mọi người rằng chúng tôi về thăm họ, rằng tôi đang đi trên con đường được đắp bằng máu của họ năm xưa, tôi nghĩ chắc họ vui.






Loanh quanh rất chậm trong sương qua núi rừng trùng điệp mãi chúng tôi cũng tới được ngã ba Tăng Ký, nơi có tấm bia đá đánh dấu địa điểm của Sở Chỉ Huy BTL Trường Sơn và là nơi xuất phát của đường ống xăng dầu huyền thoại, huyết mạch của đường Trường Sơn. Trong lúc thắp hương ở Tăng Ký, bạn Thắm một lần nữa bị trêu, chẳng hiểu quẹt vào đâu mà chân bạn ấy (mang dép cao su) bị cắt một đường, máu chảy xối xả, tôi phải dừng xe để cầm máu cho bạn ấy.





Chúng tôi gặp lại đôi bạn trẻ moto cao nghều, lúc này thì xe cô gái hết xăng thật, họ không thể đi tiếp được nữa. Tôi vào một cái lán gần đó hỏi thăm một anh bộ đội người dân tộc để tìm một cái ống khả dĩ có thể hút xăng từ xe mình sang chi viện cho bạn ấy nhưng không có, anh bộ đội người dân tộc bảo họ gắng chạy lui lại khoảng 500m, bên phải sẽ có đường vào một cái bản, ở đó có người bán xăng. Tôi dịch lại cho cô gái, họ quay xe trở lại, không quên cảm ơn và bảo tôi cứ đi, nếu ok thì họ sẽ ăn trưa ở cái bản ấy. Có vẻ không cần lo cho họ, họ có vẻ là dân đã từng đi khắp thế giới. Anh bộ đội người dân tộc vẫn nằng nặc chỉ tay sang đường nhánh rẽ xuống HCM nhánh đông mà khuyên chúng tôi nên đi đường đó, xuống Quảng Bình, anh bảo đừng đi tiếp đường này, nguy hiểm lắm. Chúng tôi cảm ơn anh, nhưng vẫn quyết đi tiếp đường của mình.


Có khoảng ba lần chúng tôi gặp những ba ri e kiểu này, chúng tôi phải xuống xe, trình bày mới được cho qua dù vẫn nhận được lời khuyên là không nên đi đường này.

Sau Tăng Ký, chúng tôi đến đèo Khu Đăng, không khí lúc này đã thoáng đãng, trời vẫn còn mù sương nhưng tầm nhìn tốt hơn chút đỉnh, chúng tôi gặp nhiều con suối cạnh đường, những con suối vẫn một màu xanh ngọc bích ấy nhưng đã rộng hơn dòng chảy có vẻ mạnh hơn. Thỉnh thoảng qua một vạt rừng, chúng tôi gặp nhiều sóc và những con chim tuyệt đẹp băng ngang đường, tiếc là chụp ảnh không kịp. Qua một góc cua thoáng đãng, chúng tôi còn gặp một bản làng với những ruộng rau đang được vun luống phẳng phiu, bên cạnh một dòng suối xanh uốn lượn bên rặng núi hùng vĩ.  Chúng tôi đi thoải mái hơn một chút, dù vẫn con đường nhỏ, qua nhiều dốc và cua ngặt nhưng, như chúng tôi vẫn nói đùa rằng chưa hoang vắng lắm, vì thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp một vài đống cứt bò giữa đường, có cứt là có bò, có bò là có người.










Vào đến Đèo U Bò thì chúng tôi mới thực sự biết mùi Trường Sơn Tây, lúc này thì tuyệt không có bóng người, đến cứt bò cũng không có. Chúng tôi leo lên những đỉnh núi chìm trong mây trắng, mây mù đặc quánh đến nỗi bạn có cảm giác như đang đi tàu ngầm trong một cái biển toàn cháo trắng. 




Chúng tôi lọ mọ đi với tốc độ rất chậm dù lúc này cả ba đã đói rã và bình xăng thì cũng chỉ còn 1/3. Lúc này bạn Thắm cảm thấy hơi sợ, hai gã đàn ông chúng tôi cố trấn an bạn ấy dù thật bụng thì tôi cũng căng thẳng lắm. Đường bê tông trơn ướt lại gần như bị phủ rêu nên bánh xe qua mỗi cái cua lại trượt ngang, có cảm giác như chỉ một sơ suất nhỏ sẽ khiến xe chúng tôi bay xuống cái biển mây bên cạnh, tôi không dám rà thắng khi xuống dốc, chỉ đi bằng số 1~2. Đâu đó, sau những cua góc khuất, sau những vách núi âm u, sau những tán cây rậm rạp, luôn có cảm giác có cả ngàn con mắt đang dõi theo chúng tôi trong cái im ắng đến rợn người của rừng núi.





Nếu không xem trên blog được thì các bạn xem Clip ở đây

Cứ quanh co uốn lượn trong màn mây mù đặc quánh đến cả hai tiếng đồng hồ làm ba chúng tôi khá căng thẳng và mệt mỏi, chỉ có những bản nhạc Trường Sơn hùng tráng và niềm tin rằng các anh, các chú, các chị, các cô nhất định sẽ giúp chúng tôi an toàn, mới đưa chúng tôi ra khỏi con đường ấy. Vào đến khu vực rừng bảo tồn Phong Nha Kẻ Bàng, chúng tôi reo lên: Cứt kìa, cứt kìa… từ xa trên đường xuất hiện một đống cứt bò, có cứt là có bò, có bò là có người. Và sau đó thêm chục km nữa, khi bắt đầu thấy thấp thoáng những nóc nhà đầu tiên, chúng tôi biết mình đã ra khỏi con đường HCM nhánh tây huyền thoại.

Ra đến Phong Nha, chúng tôi quyết định dừng chụp ảnh, bắt tay nhau thật chặt, và quay lưng vẫy chào những đỉnh núi của dãy Trường Sơn chìm trong mây trắng phía sau lưng để hòa vào dòng xe cộ ở QL 1 về Hà Tĩnh.




Xin chào Trường Sơn, xin chào con đường mà chúng tôi vừa đi qua, con đường huyền thoại của lịch sử đất nước, xin nghiêng mình trước hàng vạn hàng vạn người trẻ tuổi của đoàn quân năm xưa đã ngã xuống để tạo nên con đường Trường Sơn, một chiến tích vĩ đại và lẫy lừng, một tấm bia chung của lòng dũng cảm và sự hy sinh cho Tổ Quốc, một chiến công hiển hách của cả dân tộc.
 
Top